Theo ông, việc hình thành TTTC đầu tiên ở TPHCM và TTTC khu vực ở Đà Nẵng vào lúc này đã hội tụ đủ điều kiện thời điểm chín muồi để thực hiện?
Xét về mạng lưới ngân hàng và các tổ chức tài chính, TPHCM chiếm tỷ trọng lớn trong GDP cả nước, khoảng 23% và là trung tâm của nhiều ngành kinh tế trọng điểm như tài chính, công nghệ và dịch vụ. Còn Đà Nẵng cũng vẫn là địa phương dẫn đầu các tỉnh, thành phố khu vực Duyên hải nam Trung bộ về quy mô GRDP (năm 2024). Điều này tạo ra một hệ sinh thái doanh nghiệp năng động, nơi các công ty trong và ngoài nước có thể hợp tác, phát triển và đổi mới sáng tạo. Do đó, TPHCM và Đà Nẵng cũng đã là nơi tập trung nhiều ngân hàng, công ty chứng khoán, tổ chức tài chính, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của một TTTCQT.
Xét về mật độ tập trung hoạt động tài chính, TPHCM đang đóng góp 58% về thị trường tiền tệ những đóng góp tới 95% thị trường vốn (kể cả chứng khoán vốn, chứng khoán nợ). Tỷ lệ người dân có tài khoản ngân hàng, khả năng tiếp cận tài chính toàn diện cũng tương đối cao, tập trung nhiều doanh nghiệp niêm yết lớn, TPHCM và Đà Nẵng chủ động trên thị trường vốn nhiều hơn cụ thể chủ động huy động nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu hay chủ trương nâng hạng thị trường lên thị trường mới nổi trong giai đoạn 2025-2030; hầu hết các định chế tài chính quốc tế và nội địa đều góp mặt tại địa bàn TPHCM, cũng như các đô thị vệ tinh xung quanh. Điều này nghĩa là TPHCM và Đà Nẵng đang có sẵn cả điều kiện ở phần cứng và phần mềm để triển khai để xây dựng thành TTTCQT. TPHCM và TP Đà Nẵng có mức độ sẵn sàng tương đối tốt và một số lợi thế cạnh tranh về chi phí hoạt động so với nhiều trung tâm tài chính quốc tế khác.

TPHCM (trong ảnh) sẽ sớm xây dựng trung tâm tài chính quốc tế Ảnh: VGP
Xét về sự đa dạng hóa dịch vụ tài chính, tốc độ chuyển đổi số trong lĩnh vực công nghệ tài chính thuộc vào loại cao nhất trong khu vực và thế giới, kèm với đó là chi phí giao dịch trong hệ thống tài chính thấp hơn rất nhiều so với TTTC của thế giới. Ví dụ ở Singapore, nếu như doanh nghiệp muốn mở tài khoản thì phải kí quỹ từ 5.000 USD đến 300.000 USD tùy thuộc vào ngân hàng. Hay nếu như muốn chuyển tiền thì phí cũng rất cao và tính trên phần trăm số tiền giao dịch. Trong khi đó, các chi phí này ở Việt Nam tiệm cận bằng 0.
Hướng đi này là tất yếu và là tiền đề quan trọng để giúp hai thành phố và cả nước đi đến hội nhập quốc tế sâu rộng phát triển hơn.
Giúp cải thiện môi trường kinh doanh
Theo ông, cần những điều kiện gì về cơ chế, pháp lí , yếu tố đặc thù cũng như cần làm gì để TPHCM và Đà Nẵng trở thành các trung tâm thu hút vốn lớn từ TTTC?
Về mặt lí thuyết cũng như thực tế nghiên cứu các TTTCQT ở các nước, có 5 yếu tố quyết định sự hình thành của một TTTC, gồm: Môi trường kinh doanh, tính kết nối cao và thuận tiện, con người, cơ sở hạ tầng tài chính và pháp luật. Trên cơ sở kinh nghiệm hoạt động của các mô hình TTTC Mỹ, Singapore, Hồng Kông, Thượng Hải…, có thể nói TPHCM và TP Đà Nẵng tuy đã bước đầu có nền tảng cơ bản để hình thành TTTCQT những vẫn cần có cải thiện đáng kể trên cả 5 điều kiện trên và để cải thiện được 5 điều kiện trên, đó không chỉ là công việc của riêng hai thành phố mà còn là của cả quốc gia.
Một trong những rào cản lớn nhất khi xây dựng TTTC là dòng tiền luân chuyển tự do. Cụ thể, cần có cơ chế riêng cho TPHCM và TP Đà Nẵng thực hiện mạnh mẽ việc tự do hóa khả năng chuyển đổi của đồng tiền hay tháo bỏ hầu hết kiểm soát về dòng vốn chảy vào cũng như chảy ra, và chiến lược phát triển tài chính của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cũng cần đưa ra lộ trình tự do hóa tài chính trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, các tổ chức tài chính quốc tế chưa có mặt nhiều tại Việt Nam, do chỉ có giấy phép để kinh doanh ngân hàng truyền thống, khó xin thêm giấy phép hoạt động lĩnh vực khác, vì thế trong thời gian qua, đa số các ngân hàng quốc tế chỉ phục vụ doanh nghiệp FDI và nếu không có hy vọng phát triển thành tập đoàn tài chính thì đều rút vốn, bán lại, hoặc thu hẹp thị trường tại Việt Nam. Đây đang là rào cản lớn, nên cần có khung pháp lí cho tổ chức tài chính hoạt động theo mô hình tập đoàn tài chính. Đó là những khía cạnh cần cải thiện hàng đầu liên quan đến môi trường kinh doanh.
Kinh nghiệm của các TTTC gồm nhiều ngân hàng, công ty bảo hiểm, cty chứng khoán, doanh nghiệp bất động sản, các quỹ đầu tư, sàn giao dịch vàng, sở giao dịch hàng hóa... đang mở ra nhiều cơ hội sinh lời và thu hút khá nhiều dòng tiền từ nhiều quốc gia khác. Đồng thời, những TTTC này cũng là điểm đến để các doanh nhân gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn. Vì vậy, để trở thành TTTCQT TPHCM và TP Đà Nẵng cũng cần phải có đủ các kênh đầu tư như vậy và phải xây dựng tại vị trí thuận lợi.
Mặt khác, các TTTC khuyến khích sự hợp tác giữa những người tham gia thị trường, cơ quan quản lí và các bên liên quan khác. Điều này bao gồm chia sẻ thông tin, nỗ lực phối hợp để giải quyết các rủi ro và thách thức mới nổi. Hợp tác nâng cao hiệu quả thị trường, thúc đẩy đổi mới và tăng cường khả năng phục hồi tổng thể của hệ thống tài chính. TTTC chú trọng các biện pháp quản lí rủi ro hiệu quả. Điều này liên quan đến việc giám sát và quản lí các loại rủi ro khác nhau, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động. Khung quản lí rủi ro mạnh mẽ giúp giảm thiểu rủi ro hệ thống và đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính. Đấy là những điểm cần hoàn thiện ở TPHCM và TP Đà Nẵng để trở thành TTTCQT .

GS.TS Ngô Thắng Lợi
Việc hình thành trung tâm cũng giúp cải thiện nguồn nhân lực tài chính chất lượng cao. Nhiều TTTCQT đang đối mặt với tình trạng nhân lực thiếu chuyên môn, đặc biệt là về chuyển đổi số. Điều này đặt ra yêu cầu về đào tạo chuyên gia luật, kế toán, dịch vụ kinh doanh... Vì vậy, TPHCM và TP Đà Nẵng cũng phải vượt qua thách thức phát triển nhân lực trình độ cao, chuyên môn hóa và đào tạo lực lượng lao động. Cần phát triển nhân lực thông qua các chương trình đào tạo về an ninh mạng, AI và công nghệ đám mây đạt chuẩn quốc tế, thu hút chuyên gia CNTT và fintech quốc tế, giữ chân các nhân tài hiện có khi xây dựng TTTCQT.
Về cơ sở hạ tầng tài chính, TPHCM và TP Đà Nẵng tuy bước đầu đã có nền tảng công nghệ cơ bản nhưng vẫn cần cải thiện đáng kể về hạ tầng, tích hợp số và an ninh mạng. Các khoản đầu tư tập trung và các sáng kiến chiến lược trong những lĩnh vực này có thể giúp TPHCM và TP Đà Nẵng tiến thêm một bước đến mục tiêu trở thành TTTCQT. Tuy vậy, cần hoàn thiện thêm một hạ tầng số hiện đại, kết nối tốc độ cao nhằm hiện thực hóa mục tiêu đi tắt đón đầu về: công nghệ kỹ thuật ngân hàng số và fintech để tạo nét cho riêng mình; công nghệ phủ sóng 5G trên quy mô thành phố và mở rộng ra cả quốc gia; có trung tâm dữ liệu Tier 3+, với số lượng cần thiết; hệ sinh thái thanh toán số tích hợp ở mức độ cao và chuẩn hóa; khuôn khổ quản lí và giải pháp an ninh mạng tiên tiến, hữu hiệu dựa trên AI trước các mối đe dọa, giảm thiểu khả năng tổn thương cho hệ thống tài chính; tiêu chuẩn bảo mật và tuân thủ theo chuẩn mực quốc tế nghiêm ngặt về bảo vệ dữ liệu và an ninh tài chính.
Tóm lại, có nhiều những yếu tố cần phải hoàn thiện như vậy, và, do đó, cần phải hiểu rằng việc trở thành một TTTCQT (mà trước mắt ở cấp độ thấp hơn, là TTTC khu vực) sẽ không hề đơn giản hay chắc chắn sẽ thành công nếu chỉ có quyết tâm chính trị hay một chiến lược phát triển vẫn đầy mơ hồ, chưa rõ hình hài như trong trường hợp của TPHCM hiện nay.
Thu hút nhân tài
Việc thu hút người tài cho các trung tâm tài chính có dễ khi nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là một điểm nghẽn của Việt Nam nhiều năm qua, thưa ông?
Khi phát triển TTTCQT, ngoài việc quan tâm đến các cơ sở hạ tầng cứng như cơ sở vật chất công nghệ thì hạ tầng mềm như nguồn nhân lực có trình độ quan trọng không kém. Cần hiểu rằng, chúng ta không thể so sánh với các TTTCQT lớn như Singapore, London hay New York…; con người chính là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.
Tuy nhiên, cơ chế khuyến khích nguồn nhân lực này ở TPHCM và TP Đà Nẵng nói riêng và cả nước nói chung còn chưa nhiều. Theo quan điểm của tôi, cần quan tâm vun đắp và xây dựng để có đội ngũ nhân lực chất lượng cao ở các lĩnh vực tài chính, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, quản trị tài chính số và trên các loại hình khác nhau.
Thành phố cần có ngân sách cho hoạt động đào tạo nhân lực chất lượng cao từ học sinh, sinh viên và đào tạo lại những nhân sự làm việc tại doanh nghiệp, TTTCQT được chủ động gửi người đi học hoặc tuyển dụng nhân lực hiện có từ các nguồn đào tạo này.
Cùng với đó, cần có cơ chế thu hút nhân tài là người Việt Nam có kinh nghiệm làm việc tại các TTTC trên thế giới bằng các chính sách về thu nhập, có cơ chế để TTTCQT chủ động chế độ trả lương và thực hiện cơ chế lương đặc biệt. Hai thành phố sẽ liên kết, hợp tác với các trung tâm đào tạo quốc tế trên thế giới để cử các cán bộ của mình đến học tập kinh nghiệm, thực tập tại các TTTCQT lớn trên thế giới hoặc các lớp học mang tính ngắn hạn hoặc bồi dưỡng thực tế tại các TTTCQT trên thế giới
Thực trạng việc du học sinh đi du học nước ngoài và không trở về phục vụ đất nước hiện nay là rất phổ biến, chủ yếu do mức lương thấp so với chi phí khi đi du học, họ chưa được đãi ngộ và tạo điều kiện khuyến khích phát triển. Vì thế, cần xây dựng cơ chế để thu hút các chuyên gia và người tài giỏi để xây dựng và vận hành TTTCQT. Cần thiết phải đề xuất Trung ương các chính sách vượt trội liên quan đến thu hút nhân lực chất lượng cao trên thế giới đến sinh sống và làm việc tại TTTC khu vực TP Đà Nẵng.
Cảm ơn ông.