Những mùa tựu trường thương nhớ - Kỳ cuối: Cô giáo gieo mùa thương nhớ cho cậu trò nghèo

Tháng 9 luôn là mùa gợi nhớ thương. Tiếng trống trường dội vào lòng như tiếng vọng từ miền tuổi thơ xa xôi…

tựu trường - Ảnh 1.

Thầy cô giáo Trường tiểu học Phạm Phú Thứ hiện nay - Ảnh: CTV

1. Trong ký ức của tôi, khai trường không chỉ là buổi lễ trang trọng ở Trường tiểu học Quế Lộc, huyện Quế Sơn, tỉnh Những mùa tựu trường thương nhớ - Kỳ 6: Lắt lẻo chèo xuồng ba lá đến trườngNhững mùa tựu trường thương nhớ - Kỳ 5: Mùa tựu trường đầu tiên của tôiNhững mùa tựu trường thương nhớ - Kỳ 4: Tôi tựu trường từ miệt sông nước tới rừng núi

Tôi chưa kịp nghĩ, chỉ thấy trong lòng rộn ràng bèn chạy ù về nhà gọi bà ngoại: "Ngoại ơi, thay đồ cho con đi học!".

Thế là tôi, cậu bé 5 tuổi, lần đầu tiên bước chân đến trường trong bộ quần áo được má và ngoại sửa soạn vội.

Ký ức lờ mờ ấy sau này được má và ngoại nhắc lại nhiều lần và tôi hiểu rằng đó chính là ngày khai trường đầu đời - một khởi đầu vừa ngây ngô vừa thiêng liêng.

Những năm tháng tiểu học, sau khi khai giảng ở trường chính Quế Lộc, học sinh thôn tôi lại lũ lượt kéo về điểm trường làng. Hội trường thôn vốn để họp, nay thành lớp học không cửa sổ, chỉ có những khoảng trống lớn hứng gió lùa, trời mưa thì tạt ướt cả vở.

Phấn trắng hiếm hoi, bảng đen xỉn màu. Nhưng dưới mái trường nghèo ấy, chúng tôi đã học được những con chữ đầu tiên, những phép tính cộng trừ và trên hết là học cách ước mơ giữa khó khăn, chật hẹp.

Đầu mỗi năm học, phụ huynh phải đi lao động thay con. Bọn trẻ chúng tôi nhỏ bé, còi cọc vì thiếu ăn không thể làm nổi việc nặng. Vậy là cha mẹ, ông bà gánh phần ấy: đan rào bằng vỉ gai ngăn trường học với bãi bóng của xã để trâu bò thả rông khỏi xông vào lớp.

Tôi vẫn nhớ dáng cha mẹ và những người lớn trong thôn lom khom cột từng dây thép, tay xước rớm máu nhưng ánh mắt sáng lên niềm hy vọng: hàng rào dựng xong, bọn trẻ sẽ có nơi học hành tử tế hơn.

Đó cũng là "lễ khai giảng" sớm của phụ huynh, giản dị mà ấm áp, khởi đầu cho một năm học mới.

Trước sân trường xưa có cây bàng già sừng sững. Nó là nhân chứng của bao mùa tựu trường.

Dưới tán lá rộng, chúng tôi ngồi chờ vào lớp, ra chơi thì nhặt lá bàng khô gấp thành thuyền thả xuống vũng nước mưa.

Cái nghèo thời hậu bao cấp khiến trò nào cũng gầy nhẳng, áo quần vá chằng vá đụp nhưng niềm vui học trò thì chẳng hề vơi.

Cây bàng ấy đến nay vẫn còn, đứng lặng lẽ dưới chân đèo Le, thuộc vùng đất Quế Sơn (tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ). Mỗi lần về lại quê nhà, nhìn tán bàng già, tôi như thấy lại cả tuổi thơ mình rộn rã tiếng ê a.

Thầy cô của chúng tôi khi ấy đều từ phương xa đến. Họ vượt qua đèo Le cheo leo với con đường đất đá hoang sơ, chiều tối lại trở về khu nội trú ọp ẹp.

Có người chỉ gắn bó một hai năm, có người ở lâu hơn. Nhưng tất cả đều mang chung một tấm lòng: đem con chữ về gieo trên cánh đồng nghèo.

Những đứa trẻ chân đất như chúng tôi đã được nâng bước từ tấm lòng ấy. Và từ nơi hội trường thôn xộc xệch, lớp lớp học trò vẫn lớn khôn, đi xa, mang theo ký ức không thể phai mờ.

tựu trường - Ảnh 2.

Cô Diên và học trò, trong đó tôi (giữa) năm học lớp 4 - Ảnh: tư liệu

2. Hơn 30 năm trôi qua kể từ ngày tôi được học cô Nguyễn Thị Diên ở Trường tiểu học Quế Lộc mà ký ức vẫn tươi nguyên như mới hôm qua.

Giờ đây tôi đã đi xa, sống và làm việc ở thành phố lớn nhưng tình thương mà cô dành cho cậu học trò mồ côi cha, nghèo khó năm nào vẫn còn đầy ắp.

Cô không chỉ dạy chữ, dạy làm lớp trưởng, dạy tôi cách đứng thẳng trong lớp mà còn gieo vào tôi một tình thương, một niềm tin để tôi đủ sức đi qua những năm tháng chông chênh nhất.

Có những ký ức đi qua như mưa thoảng, có những ký ức neo lại như cánh đồng tuổi thơ và có những ký ức hóa thành hành trang cả đời. Cô giáo lớp 4 của tôi là ký ức như thế.

Hồi ấy tôi đã là đứa trẻ khác biệt so với bạn bè. Cả lớp ai cũng có cha mẹ, riêng tôi chỉ sống cùng má và ngoại.

Trong hồ sơ học sinh, ô ghi tên cha có dòng chữ ngắn ngủi "đã mất". Cô Diên kể lần đầu đọc thấy, cô nghẹn lại, "tự dưng thấy thương con nhiều quá".

Thương vì đứa trẻ này vừa thiếu thốn tình cảm vừa sống trong cảnh túng quẫn: mái tranh thủng lỗ chỗ, phên tre trống hoác, gió mùa đông cứ thế lùa vào lạnh ngắt. Má và ngoại tôi lại thường xuyên đau ốm. Con đường đến trường của tôi vì vậy chưa bao giờ là điều hiển nhiên.

Tôi là một trong những học sinh giỏi của lớp, lại hiền lành nên được giao làm lớp trưởng. Nhưng không vì thế mà cô dễ dãi.

Có lần tôi lỡ nói chuyện trong giờ, cô gọi tôi lên bảng và nhắc trước lớp: "Là lớp trưởng thì phải nghiêm túc để làm gương".

Lời nhắc ấy khiến tôi đỏ mặt nhưng sau đó tôi tự rèn mình nghiêm khắc hơn và vai trò lớp trưởng cũng trở thành bước tập dượt đầu tiên để tôi học cách chịu trách nhiệm. Nhiều bạn đến bây giờ gặp lại vẫn gọi tôi là "lớp trưởng" thay vì gọi tên thật.

Tôi nhớ mãi một buổi chiều cuối thu khi ở lại lớp tập văn nghệ, cô ngồi cạnh kể cho tôi nghe về người thương của cô - chú Cường, sau này là chồng và cũng là cha của các con cô.

Chú cũng từng nghèo, cũng chỉ có một mẹ già bên cạnh nhưng đã nỗ lực học hành và trở thành luật sư.

Cô nhìn tôi rồi nói: "Con ráng học để giúp má và ngoại nghen". Lời khuyên ấy như một ngọn đèn sáng trong tôi. Tôi đã hứa với cô: "Dù thế nào con cũng sẽ học đến nơi đến chốn". Và tôi đã giữ được lời hứa năm 10 tuổi ấy.

3. Hai năm học trong hội trường thôn nghèo và lớp 4 đáng nhớ đã để lại trong tôi một dấu ấn không thể xóa. Mỗi dịp khai giảng, chúng tôi mặc chiếc áo trắng đã ngả màu, đứng xếp hàng dưới gốc bàng, lắng nghe tiếng trống dội thẳng vào tim.

Niềm hạnh phúc giản dị khi được đi học, với tôi, luôn là ký ức sâu đậm hơn bất kỳ nghi thức nào. Có lẽ chính vì vậy mà tiếng trống khai trường đến bây giờ vẫn làm tôi rưng rưng, như đánh thức đứa trẻ năm nào.

Cuộc đời đã đưa tôi đi xa, sống và làm việc nơi thành phố lớn nhưng mỗi khi tháng 9 trở về, ký ức khai trường lại hiện ra.

Tôi nhớ mùi bụi phấn vương tay áo trắng thâm kim, cũ kỹ; nhớ hàng rào gai má tôi và phụ huynh các bạn làm để giữ cho trâu bò khỏi phá lớp; nhớ dáng bạn bè nghịch ngợm dưới gốc bàng già.

Nhớ cả buổi sáng đầu tiên năm mẫu giáo khi tôi ù chạy về nhà xin ngoại cho đi học. Tất cả gói trọn trong một từ "khai trường".

Giờ đây, con trai tôi cũng cắp sách đến trường, cu cậu vào lớp 2. Ngôi trường của con chính là ngôi trường cũ của tôi năm nào, nay đã khang trang, mang tên Trường tiểu học Phạm Phú Thứ, xã Nông Sơn, TP Đà Nẵng.

Lớp học sáng sủa, bàn ghế ngay ngắn, sân trường rộng mở, chẳng còn bóng dáng tạm bợ của hội trường thôn. Nhưng dưới tán bàng già, tôi vẫn nhận ra bóng dáng tuổi thơ mình.

Tháng 9 tôi sẽ kể cho con nghe về những mùa khai trường của ba, về phụ huynh ngày xưa làm hàng rào, về thầy cô vượt đèo Le với con đường đá lởm chởm, về những năm tháng ê a trong lớp học không cửa sổ.

Tôi muốn con hiểu rằng sự đủ đầy hôm nay là thành quả của những gian nan ngày trước. Những đứa trẻ thời bao cấp, thiếu ăn, áo vá, vẫn lớn lên từ ngôi trường nghèo ấy.

Chính khát vọng học tập, chính niềm tin cha mẹ và sự hy sinh của thầy cô đã hun đúc nên hành trang cho cả đời. Và giờ đây con tôi tiếp nối bước đi, hưởng một môi trường học hành khang trang nhưng vẫn cần biết trân trọng những ký ức cũ...

Mỗi mùa khai trường, tiếng trống trường không chỉ mở ra một năm học mới. Nó còn là tiếng vọng của ký ức, của một thời khốn khó nhưng chan chứa tình thầy trò.

Với tôi, đó là mùa nhớ không phai - mùa khai trường của những đứa trẻ lớn lên từ hội trường thôn, dưới tán bàng già nơi chân đèo Le.

Và tôi tin rằng ký ức ấy sẽ còn theo tôi đi mãi, như một ngọn lửa lặng thầm soi sáng những chặng đường đời.

Những mùa tựu trường thương nhớ - Kỳ cuối: Cô giáo gieo mùa thương nhớ cho cậu trò nghèo - Ảnh 3.Những mùa tựu trường thương nhớ - Kỳ 7: Ngày khai giảng, người chị em tôi nhuộm bùn đất đỏ

Trên hành trình trở về miền ký ức, có những nơi chốn chỉ cần đặt chân tới là bao kỷ niệm tuổi thơ lại ùa về như thước phim quay chậm.

Đọc tiếp Về trang Chủ đề