Đó là nhận định của ông Nguyễn Tiến Dĩnh - Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội Vụ khi nói về chủ trương sáp nhập các tỉnh, xã, bỏ cấp huyện theo kết luận số 126 và 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025.
“KHÔNG SÁP NHẬP TỈNH THÌ VIỆT NAM KHÔNG THỂ ĐẠT MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG GDP NĂM 2025 VƯỢT 8%”
Trước năm 1976, Việt Nam từng chỉ có 38 tỉnh/ thành. Nhưng hiện nay có tới 63 tỉnh/ thành và chúng ta lại đang chuẩn bị cho một cuộc đại sáp nhập sắp diễn ra. Theo ông, vì sao nước ta lại có nhiều lần chia tách rồi lại nhập lại các tỉnh như vậy?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam có khoảng 38 tỉnh thành. Sau đó, các địa phương dần dần tách ra. Đến năm 2004, nước ta có 64 tỉnh/ thành. Sau khi sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội (năm 2008) thì còn 63 đơn vị hành chính như hiện nay.
Tại sao lại chia tách và sáp nhập nhiều như vậy? Nhìn lại lịch sử, quá trình chia tách đã tạo động lực thúc đẩy các địa phương phát triển. Cho dù có một số tỉnh chậm hơn một chút nhưng nhìn chung, tất cả địa phương đều thay da đổi thịt.
Hiện nay, dư địa phát triển ở các tỉnh đang chững lại do hạn chế về nhiều mặt như: nguồn nhân lực/ vật lực, quỹ đất đai… Mặt khác, sự phát triển của hạ tầng và bước tiến nhảy vọt về công nghệ đã xoá nhoà khoảng cách. Vận hội mới giúp Việt Nam đứng trước thời cơ chín muồi chưa từng có để thực hiện chiến lược sáp nhập các tỉnh/ thành, sắp xếp, tinh gọn lại bộ máy. Đây là cách tạo thêm không gian, huy động tốt hơn các nguồn lực để tăng tốc.
Về bản chất, Đảng và Nhà nước đã và đang thực hiện cuộc cách mạng sắp xếp lại bộ máy chính trị, tinh giản biên chế. KL126 và gần đây nhất là KL127 của Bộ Chính trị, Ban Bí Thư tiếp tục nghiên cứu sắp xếp lại cấp tỉnh, bỏ cấp huyện và sáp nhập các xã, thì cũng chỉ là bước đi tiếp theo nhằm thống nhất, thông suốt và tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Đích cuối của tất cả việc này vẫn là hai chữ “hiệu lực, hiệu quả”. Bởi vì khi các đơn vị hành chính bị phân chia manh mún, bộ máy cồng kềnh thì không thể hoạt động tốt. Nó sẽ gây phiền nhiễu, chậm trễ trong thi hành quyết định... Sáp nhập là xu thế tất yếu, là cuộc cách mạng không thể không làm. Nói như TBT Tô Lâm, nếu không làm là có tội với dân.
Tại sao lại có tội? Bởi vì nếu không có cuộc cách mạng tinh giản bộ máy, nước ta sẽ không thể đạt được mục tiêu như Đại hội Đảng 13 đề ra là năm 2025, GDP nước ta vượt mốc 8% và các năm về sau đạt tăng trưởng 2 con số, đến năm 2030, nước ta là nước thu nhập trung bình cao, 2045 là nước phát triển thu nhập cao.

Ảnh ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Quochoi.vn
Xin ông nói rõ thêm về mối quan hệ giữa việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp địa phương và việc tăng tốc phát triển kinh tế?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Để hoàn thành tốt mục tiêu phát triển kinh tế mà nghị quyết ĐH Đảng 13 đã nêu thì cần có 3 đột phá về: Thể chế, hạ tầng và con người.
Rào cản và động lực lớn nhất cho sự phát triển là con người. Trong bối cảnh mới, cán bộ viên chức phải được sắp xếp tinh gọn, hiệu quả thì mới nâng cao sức mạnh của Nhà nước trong vận hành và quản lý kinh tế. Đây là tiền đề quan trọng nhất cho sự phát triển.
Các cán bộ, Đảng viên phải thống nhất và thông suốt chủ trương của Đảng, Nhà nước. Rất nhiều người hiểu và ủng hộ, sẵn sàng nghỉ sớm một vài năm nhường bước cho thế hệ trẻ. Nhiều người nhận thấy không phù hợp với công tác mới cũng tự nguyện rời ngành. Tất nhiên số người bị ảnh hưởng không nhỏ. Cuộc cách mạng nào cũng phải có hy sinh. Nhưng sự hy sinh đó là rất nhỏ nếu so với đại cục. Ngược lại, Đảng và Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách vượt trội, sắp xếp, điều chuyển công tác và ưu tiên giải quyết cho những ai muốn rời ngành hoặc nghỉ hưu sớm. Những điều này đã quy định chi tiết trong NĐ 178.
Về mặt con người là như vậy. Đối với hạ tầng, chúng ta đang làm rất quyết liệt. Phấn đấu đến năm 2030, nước ta có 5.000km đường cao tốc, 2025 này là 3.000km. Chúng ta đang vận hành đường sắt từ Lào Cai tới Hải Phòng, chuẩn bị đầu tư đường sắt cao tốc 350km Hà Nội - TP Vinh (Nghệ An). Đường điện 8 đã hoàn thành mạch 3 và đang tiếp tục mạch 4. Dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận đang triển khai. Nhà nước đã và đang đầu tư hàng loạt sân bay lớn…
Về mặt thể chế, chúng ta đã tháo gỡ rất nhiều. Nhà nước đã điều chỉnh hầu hết các luật về đầu tư công; đột phá phát triển khoa học công nghệ; thu hút vốn đầu tư FDI, luật đất đai…
Trong 3 vấn đề này, đột phá cốt tử là phải tổ chức bộ máy về con người thật tốt. Vấn đề chính vẫn là chỉ đạo và thực thi. Nếu quyết liệt thì bước tiến của đất nước mới nhanh hơn.
Lấy ví dụ, trong đầu tư công, có tiền mà không giải ngân được thì do con người chứ, đúng không? Nếu cán bộ lừng khừng, tiêu cực, đơn vị hành chính manh mún, qua nhiều cấp, quyết định chậm thì không ổn. Cho nên mới cần tinh gọn bộ máy, thông suốt tinh thần viên chức nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu năng là vì vậy.
“CẦN NHIỀU HƠN CÁC TIÊU CHÍ ĐỂ SÁP NHẬP TỈNH”
Khi đem ra so sánh về diện tích, một số người cho rằng Trung Quốc là đất nước rất rộng lớn, đứng thứ 3 trên thế giới nhưng cũng chỉ có 34 tỉnh/ thành, hay Mỹ cũng là nước rất rộng, đứng thứ 4 toàn cầu nhưng cũng chỉ có 54 bang. Vậy nếu sáp nhập, Việt Nam thu gọn còn bao nhiêu tỉnh/ thành mới hợp lý?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Đối với thế giới, chúng ta chỉ là tham khảo thêm. Chuyện này cũng rất cần thiết. Ví như khi sắp xếp bộ máy, TBT cũng dẫn số liệu 80% các nước hệ thống địa phương chỉ có hai cấp, cả nước có 3 cấp là trung ương, cấp tỉnh và cấp phường/ xã.
Tuy nhiên, tham khảo thì còn phải tùy theo điều kiện Việt Nam chứ không phải bê nguyên xi mô hình các nước. Ví dụ, nhiều người nói Giáo dục của Nhật rất tốt, nhưng chúng ta cũng đâu thể copy-paste nguyên si mọi thứ của họ! Mỗi đất nước có điều kiện, văn hoá truyền thống khác nhau, yêu cầu giáo dục khác nhau. Cũng như vấn đề sắp xếp bộ máy này, Trung Quốc rất khác vì đất nước của họ khá tập trung, còn Việt Nam trải dài, vùng biển rộng, có nơi đất liền hẹp nhất chỉ 50km như ở Quảng Bình. Vị trí địa lý, điều kiện mọi mặt khác nhau. Nếu mà bê nguyên cách làm như Trung Quốc thì có người nói vui: Việt Nam có lẽ chỉ cần 3 tỉnh Bắc - Trung - Nam là xong. Nhưng đó chỉ là ý kiến cho vui thôi. Cái chính là phải dựa vào cơ sở khoa học, cân nhắc mọi mặt.
Sắp xếp lại còn bao nhiêu tỉnh thì phải dựa vào nhiều tiêu chí để đánh giá. Nhưng chúng ta có tiền đề thuận lợi là năm 1976, Việt Nam từng có 38 tỉnh và nếu bây giờ quay lại như vậy cũng là một giải pháp phù hợp. Nhưng đây chỉ là dự báo cá nhân của tôi, còn cụ thể ra sao thì các cơ quan chức năng phải nghiên cứu, lấy ý kiến, thông qua các ban ngành có thẩm quyền quyết định.

Ảnh ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Quochoi.vn
Ông nói việc sáp nhập tỉnh/ thành nên dựa vào nhiều tiêu chí thì theo ông, đó nên là những tiêu chí cụ thể gì?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Theo Kết luận 127-KL/TW ban hành ngày 28/2 vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu khi xây dựng đề án sáp nhập cấp tỉnh, ngoài căn cứ về quy mô dân số, diện tích thì cần nghiên cứu kỹ quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành, mở rộng không gian phát triển, phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển đối với từng địa phương và yêu cầu, định hướng phát triển của giai đoạn mới… để làm cơ sở, căn cứ khoa học trong sắp xếp.
Tôi rất tán đồng với điều này. Vì trước đó, Điều 1 Nghị quyết 1211/2016/UBTVQH13 đã nêu tiêu chí như sau:Tỉnh miền núi, vùng cao từ 900.000 người trở lên; Tỉnh không thuộc điểm a khoản này từ 1.400.000 người trở lên. Về diện tích, tỉnh miền núi, vùng cao từ 8.000 km2 trở lên; Tỉnh không thuộc điểm a khoản này từ 5.000 km2 trở lên. Số đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc có từ 09 đơn vị trở lên, trong đó có ít nhất là 01 thành phố hoặc 01 thị xã.
Theo tôi, việc sáp nhập nên tính đến mọi mặt như: Truyền thống văn hoá - lịch sử, khí hậu/ thời tiết, vị trí địa chính trị - địa kinh tế, các lợi thế của từng địa phương, các tỉnh giáp biển, các tỉnh miền núi cần có tiêu chí riêng, vùng đồng bằng, vùng ven đô cũng cần tiêu chí riêng, tất cả phải tính toán kỹ để tạo nên các vùng kinh tế hoặc đặc khu kinh tế về sau. Sự sáp nhập rất quan trọng ở yếu tố lợi thế của địa phương. Nếu chênh lệch lớn có thể tạo rào cản kìm hãm sự phát triển.
Tất nhiên, diện tích và quy mô dân số là tiêu chí quan trọng hàng đầu, nhưng còn các yếu tố khác cũng rất đáng phải xem xét.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp hôm 5/3. Ảnh: Chính phủ.vn
“KHÔNG NÊN VÌ TÂM TƯ MÀ NÍU KÉO HAY TRÌ HOÃN VIỆC SÁP NHẬP”
Gần đây MV “Bắc Bling” của ca sĩ Hoà Minzy gây sốt cộng đồng mạng, nhất là trong bối cảnh các tỉnh sắp phải sáp nhập và cái tên Bắc Ninh có thể sẽ không còn nữa. Nhiều người tỏ ra luyến tiếc vì địa phương mà họ đã gắn bó từ khi mình sinh ra có thể sẽ thay đổi. Họ cũng đặt ra nhiều câu hỏi là sau khi sáp nhập, các vấn đề văn hoá truyền thống sẽ tiếp tục được duy trì phát triển như thế nào? Ông sẽ nói gì về những nỗi lo lắng này?

Một góc trung tâm TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Thiên Sơn
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Cảm xúc bâng khuâng là khó tránh. Nhưng chúng ta nên nghĩ nhiều hơn đến lợi ích chung cho đất nước. Tên gọi của tỉnh/ thành là vấn đề rất nhỏ. Không có gì bất biến, nhưng những gì là tinh hoa thì vẫn sẽ lưu truyền mãi. Trong quá khứ, Việt Nam cũng đã có nhiều kinh nghiệm khi chia tách và sáp nhập các tỉnh. Sự thay đổi về cách tổ chức bộ máy hành chính không làm mất đi các giá trị tốt đẹp.
Ví như giả sử mai kia không còn tỉnh Bắc Ninh nữa nhưng quan họ vẫn còn đó, làng tranh Đông Hồ, thành cổ Bắc Ninh, đền Bà Chúa, chùa Dâu… vẫn còn đó. Ngày xưa Bắc Ninh và Bắc Giang cùng thuộc tỉnh Hà Bắc. Sau này khi tách ra thì một số vùng trên Bắc Giang vẫn có hát quan họ. Nhưng từ bao đời nay, người ta vẫn gọi quan họ Bắc Ninh chứ chả ai nói quan họ Bắc Giang cả.
Khi xưa, lúc sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội, rất nhiều người lo mất đi văn hóa xứ Đoài, nhưng đâu phải thế! Chỉ là chúng ta không còn tên tỉnh Hà Tây nữa thôi. Làng cổ Đường Lâm vẫn đấy, chùa Hương… vẫn đấy, thậm chí còn được Hà Nội tập trung bảo tồn, phát triển mạnh mẽ hơn xưa.
Cũng như khi thay đổi cơ cấu bộ máy chính quyền, nhiều người tiếc nuối từ nay không còn Bộ này, Bộ kia nhưng cái đó tất yếu thôi. Đất nước cần biến thiên theo dòng chảy thời gian cũng vì yêu cầu mới, thách thức mới.
Tâm tư là khó tránh nhưng không nên vì thế mà níu kéo hay trì hoãn việc sáp nhập. Thế giới sắp tiến tới công nghệ 5.0 rồi mà mình vẫn còn luyến tiếc cái nhỏ, không dám vì nghĩa lớn thì làm sao sánh kịp họ.
Hơn nữa, ngay cả các giá trị truyền thống cũng không hề nằm im. Chúng ta bảo tồn không có nghĩa giữ nguyên si mà duy trì để phát triển. Cái cũ cũng phải phù hợp bối cảnh mới. Giống như MV của ca sĩ Hoà Minzy thì yếu tố truyền thống vẫn được lồng trong chất nhạc hiện đại đấy chứ (cười)!

“TINH GỌN BỘ MÁY, TRƯỚC HẾT PHẢI NÓI ĐẾN GIỮ NGƯỜI TÀI RỒI MỚI TÍNH TỚI THU HÚT”
Khi cuộc cách mạng sắp xếp lại đơn vị hành chính và tinh giản bộ máy diễn ra, rất nhiều người quan tâm vấn đề trọng dụng nhân tài. Gần đây, Bộ Quốc phòng cũng gây xôn xao khi đề xuất trả lương chuyên gia, tổng công trình sư lên tới hơn 200.000 đồng/ tháng. Ông có kỳ vọng gì từ những chính sách đột phá này?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Đảng và Nhà nước ta từ xưa tới nay rất quan tâm vấn đề trọng dụng người tài, xem hiền tài là nguyên khí quốc gia. Trong khi sắp xếp tinh gọn bộ máy, Đảng và Nhà nước cũng đặc biệt quan tâm vấn đề giữ chân người tài đức. Khoan nói đến thu hút, quan trọng lúc này là giữ đúng người. Nếu người thực giỏi, cho dù họ còn ít năm công tác mà phải nghỉ sớm cũng là rất đáng tiếc.
Đối với nhân lực giỏi, từ xưa tới nay, nước ta đã có nhiều chính sách hấp dẫn, từ thu hút, tuyển dụng, đào tạo, bố trí, thăng tiến, đãi ngộ (bao gồm cả lương, thưởng, cấp nhà công vụ, phương tiện di chuyển)… Nhưng đúng là các chính sách này chưa đủ sức hút nếu so sánh với khu vực tư nhân.
Vấn đề trọng dụng nhân tài không chỉ nằm ở tiền lương. Quan trọng là môi trường làm việc minh bạch, hấp dẫn. Nếu được cống hiến, có người sẵn sàng từ bỏ công việc lương hàng chục nghìn USD/ tháng từ nước ngoài về đây. Muốn thế, ta phải công nhận tài năng của họ, bố trí công việc cho phù hợp, đúng sở trường và tạo điều kiện, phương tiện làm việc, trân trọng ý kiến đóng góp của người ta. Người đứng đầu phải tôn trọng, biết dụng nhân tài thực sự chứ đừng sợ lính giỏi hơn tướng là không được.
Về phía các nhà khoa học, Quốc Hội đã có chính sách tháo gỡ trong nghiên cứu khoa học, bao gồm tạo điều kiện, giảm bớt các thủ tục hành chính về tài chính cho nghiên cứu. Hiện nay, nhiều nhà khoa học ngại làm nghiên cứu khoa học vì mất quá nhiều thời gian dự toán kinh phí nghiên cứu rồi xin phê duyệt. Quốc Hội đã tháo gỡ theo hướng khoán nghiên cứu, có chủ trương chấp nhận rủi ro thất bại. Đây là đột phá rất quan trọng. Vì thế giới bao la, con người sao nắm bắt hết. Một nghiên cứu có thể thất bại vì rất nhiều lý do.
Thu Hường