Nhà báo chiến trường - ngòi bút giữa đạn bom - Kỳ 2: PV ảnh đặc biệt ở chiến trường biên giới 1979

Quyết định lên chuyến bay một chiều đã giúp nhà báo, nhiếp ảnh gia Trần Mạnh Thường chụp được loạt ảnh lịch sử đặc biệt trong cuộc chiến anh hùng bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979.

nhà báo - Ảnh 1.

Nhà báo Trần Mạnh Thường xông pha chiến trường biên giới khốc liệt để có những tấm ảnh sự thật lịch sử bi hùng - Ảnh: NVCC

Ông tâm sự Nhà báo chiến trường - ngòi bút giữa đạn bom - Kỳ 2: PV ảnh đặc biệt ở chiến trường biên giới 1979 - Ảnh 2.

Tấm ảnh chụp cô chiến sĩ cứu em bé nơi đạn bom đã có hậu rất cảm động - Ảnh: TRẦN MẠNH THƯỜNG

Tấm ảnh thay đổi số phận con người

Mỗi tấm ảnh, mỗi khoảnh khắc, nhà báo, nhiếp ảnh gia Trần Mạnh Thường đều có một câu chuyện riêng để kể. Trong đó có những chuyện ông phải dừng lại rất lâu, như chuyện của gia đình anh Nông Văn Ất hay chuyện của cô bộ đội bế em bé đã thay đổi số phận của họ khi gặp lại sau 40 năm.

Khi chụp ảnh, những điểm được tác giả chú ý như xe tăng Trung Quốc có chữ bát in trên thân xe, vì cả đối phương và ta đều dùng chung một loại xe tăng.

Các điểm bị bắn phá nặng nề như trường học, bệnh viện, nhà trẻ, ông Thường đều có mặt để ghi lại hiện trường. Cổng trường bị đổ sụp, bảng tên bệnh viện bị cắt đôi, ống kính của ông còn hướng vào bên trong là một đống đổ nát, tất cả đều bị san bằng.

Cảnh đoàn quân vệ quốc Việt Nam lội suối, băng rừng vào trận địa. Cảnh chiến đấu trong chiến hào chật hẹp, lúc nằm rạp bắn súng, lúc xông lên ném lựu đạn. Khi bàn phương án tác chiến ở hậu phương, lúc bàn ngay trong chiến hào.

Cảnh vận chuyển lương thực, thuốc men, đạn dược của dân công hỏa tuyến. Y sĩ cứu chữa thương binh, có cả cảnh băng bó vết thương cho quân đối phương khi bị bắt.

Rất nhiều tấm ảnh đặc biệt như tấm ghi lại nỗi đau của anh Nông Văn Ất (xã Hưng Đạo, Cao Bằng) khi vợ con anh bị sát hại không còn một ai.

Giọng ông Thường nghẹn lại khi chỉ vào bức ảnh chụp vợ con anh Ất được vớt từ giếng lên nằm một dãy. Người vợ đang mang bầu và bốn đứa con đều chết thảm, bé nhỏ nhất mới 3 tuổi, bé lớn nhất 10 tuổi.

Trong khi đó, tấm ảnh cô bộ đội bế em bé là câu chuyện nhân văn, ấm lòng giữa những mất mát đau thương. Nhà báo Mạnh Thường đã bắt trọn khoảnh khắc đẹp ấy khi đi ngang qua một ngã ba đường.

"Ngày 24-2, trên đường di chuyển đến cầu Tài Hồ Sìn (Hòa An, Cao Bằng), tôi gặp cảnh một bé gái chừng 3 tuổi ngồi khóc lịm bên người mẹ nằm bất động với vết thương rất nặng ở vệ đường. Vừa lúc đó có chiếc xe bộ đội chạy đến, cô chiến sĩ ôm súng nhảy xuống, vội vã ôm bé vào lòng.

Tôi đã xúc động bấm được khoảnh khắc đó, tiếng súng lại nổ, cô chiến sĩ lên xe đưa bé về tuyến sau. Tôi không biết tên cô chiến sĩ cũng như tên cô bé, mãi 40 năm sau mới gặp lại", ông Thường xúc động kể.

Năm 2016, trong một chương trình tổ chức cho cô bộ đội và cô bé gặp nhau, ông Thường mới được gặp lại nhân vật trong bức ảnh đặc biệt của mình. Cô chiến sĩ tên Bùi Thị Mùi (quê xã Thanh Cù, Thanh Ba, Phú Thọ) là chiến sĩ Đại đội 3, Tiểu đoàn 19 vận tải, Sư đoàn 346.

Còn cô bé năm xưa tên Hoàng Thị Thu Hiền, đã 40 tuổi, sống xã Hoàng Tung, TP Cao Bằng. Đây cũng là lần đầu tiên gặp lại nhau của ba người, ai cũng xúc động khó nói thành lời.

Cô bé Hiền ngày nào giờ đã thành cán bộ văn hóa xã, còn cô bộ đội lại ở trong hoàn cảnh đáng thương khi gặp tai nạn cây đổ làm liệt cả hai chân. Cô may mắn có người chồng yêu thương luôn bên cạnh hỗ trợ nhưng tiếc là cả hai không có con cái.

Ngày gặp lại, Hiền đã gọi cô Mùi là mẹ, khiến cô bật khóc, cả hội trường vỡ òa tiếng vỗ tay. Ông Thường chứng kiến cảnh ấy cũng xúc động, mắt nhòe lệ.

Sau buổi gặp, cô Mùi đã được đưa xuống bệnh viện lớn ở Hà Nội để chữa trị đôi chân. Mạnh thường quân khắp nơi đã góp tiền để cô sửa lại căn nhà, cuộc sống bớt khó khăn hơn nhiều.

Nhà báo cần lao động say mê và tập trung

Nhà báo, nhiếp ảnh gia Trần Mạnh Thường sinh năm 1939, quê Quảng Bình, nhưng ông gắn bó phần lớn cuộc đời ở Hà Nội. Năm 1959, ông được sang CHDC Đức học ngành nhiếp ảnh 5 năm. Khi về nước, ông công tác ở NXB Văn Hóa, có mặt ở hai cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 phía Bắc và 1980 ở Campuchia.

Ông làm việc và nghiên cứu suốt đời ở lĩnh vực nhiếp ảnh, văn học nghệ thuật và lịch sử. Mảng nào ông cũng mạnh và cho ra đời nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu, lý luận, phê bình đồ sộ. Với 4 cuốn sách ảnh, 7 cuốn về kỹ thuật, phê bình nhiếp ảnh, đồng thời biên soạn 50 cuốn sách về khoa học kỹ thuật, lịch sử và văn học nghệ thuật...

Ông được xem là người sáng lập ra khoa nhiếp ảnh của Trường ĐH Sân khấu Điện ảnh và ở tuổi 90, mỗi tuần ông vẫn chạy xe máy hai buổi đi dạy học. Ngoài ra, ông vẫn viết báo, viết sách mỗi ngày.

"Khi các bạn chọn nhiếp ảnh hay bất kỳ công việc nào thì hãy thật sự say mê và tập trung. Ảnh báo chí hay ảnh nghệ thuật chúng ta đều phải lao động nghiêm túc. Ảnh báo chí tuyệt đối không sắp xếp, nó là khoảnh khắc của đời sống, hãy lao vào sự kiện để có nó", nhà báo, nhiếp ảnh gia Trần Mạnh Thường ân cần nhắc nhở thế hệ trẻ.

Nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Quốc Khánh - nguyên chủ tịch Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh VN - đã nhận xét giá trị tư liệu lịch sử đặc biệt trong ảnh chiến tranh của Trần Mạnh Thường:

"Một số tác phẩm tư liệu quý, trải qua năm tháng sẽ dần trở thành di sản ảnh của đất nước. Tôi hy vọng chờ đón tái bản của cuốn sách với phần bổ sung những câu chuyện về cuộc đời của nhân vật, sự kiện trong ảnh và câu chuyện cảm xúc của người chụp ra tấm ảnh đó".

-------------------------------------------

Máy bay bắn ầm ầm trên đầu nhưng người dân, và nhất là đám phóng viên chúng tôi vẫn chui ra khỏi hầm để xem không chiến...

Kỳ tới: Đời chúng ta đâu có chuyện là ta cứ đi

Nhà báo chiến trường - ngòi bút giữa đạn bom - Kỳ 2: PV ảnh đặc biệt ở chiến trường biên giới 1979 - Ảnh 3.Nhà báo chiến trường - ngòi bút giữa đạn bom - Kỳ 1: Học làm phóng viên ở Thông tấn xã Giải phóng

Biết bao nhiêu bài học cho cuộc đời sau này tôi đã học được trong những ngày được lăn lộn đi làm phóng viên Thông tấn xã Giải Phóng.

Đọc tiếp Về trang Chủ đề

Link nội dung: https://businessinvestmentvn.com/nha-bao-chien-truong-ngoi-but-giua-dan-bom-ky-2-pv-anh-dac-biet-o-chien-truong-bien-gioi-1979-a246671.html