Nga - Trung Quốc bắt tay làm dự án đường ống khí đốt công suất 50 tỷ m3/năm, chuyên gia phương Tây vội vã "nói lời cay đắng"

Sau khi Nga công bố đã ký biên bản ghi nhờ về dự án đường ống khí đốt Power of Siberia-2 với Trung Quốc, hàng loạt chuyên gia cho biết thoả thuận này không phải cam kết cụ thể.

Nga - Trung Quốc bắt tay làm dự án đường ống khí đốt công suất 50 tỷ m3/năm, chuyên gia phương Tây vội vã "nói lời cay đắng"- Ảnh 1.

Giữa hàng loạt sự kiện ngoại giao diễn ra liên tiếp tại Trung Quốc vào đầu tháng 9 vừa qua, Bắc Kinh và Moscow dường như đã đạt được một bước đột phá lớn khi CEO Gazprom - Aleksei Miller, công bố việc ký kết biên bản ghi nhớ ràng buộc pháp lý cho dự án đường ống khí đốt Power of Siberia-2. Thông báo này được xem là dấu hiệu cho thấy quan hệ Nga - Trung tiếp tục được thúc đẩy bất chấp áp lực từ phương Tây.

Tuy nhiên, giới quan sát năng lượng lại tỏ ra dè dặt trước “thành tựu” này. Nhiều chuyên gia cho rằng, bản ghi nhớ được công bố chưa thể hiện cam kết cụ thể nào về giá khí đốt, khối lượng vận chuyển hay nguồn tài chính đầu tư. Trong khi đó, đây lại là những yếu tố cốt lõi để dự án thật sự được triển khai.

“Một biên bản ghi nhớ ràng buộc pháp lý không phải là hợp đồng cung cấp khí đốt. Đây chỉ là bề nổi của tiến trình đàm phán và chưa phải ‘đèn xanh’ cho dự án,” chuyên gia Erica Downs từ Đại học Columbia nhận định.

Trung Quốc có thực sự cần Power of Siberia-2?

Với Moscow, đường ống dài 2.600 km từ bán đảo Yamal (Tây Siberia) đến miền bắc Trung Quốc thông qua Mông Cổ là phương án thay thế phần nào thị trường châu Âu mà Nga đã mất.

Trong khi đó, Trung Quốc dường như lại không quá vội vàng. Bắc Kinh có quá nhiều lựa chọn trong chiến lược nhập khẩu khí đốt và đã chủ động đa dạng hóa nguồn cung từ lâu nhằm tránh phụ thuộc vào bất kỳ đối tác nào.

Hiện Nga đã là nhà cung cấp khí đốt đường ống lớn nhất cho Trung Quốc thông qua tuyến Power of Siberia-1, bắt đầu vận hành từ năm 2019 theo hợp đồng trị giá 400 tỷ USD kéo dài 30 năm. Đồng thời, Trung Quốc còn nhập khẩu LNG từ Úc, Qatar - 2 nhà cung cấp lớn trên thị trường quốc tế.

Song song với đó, Trung Quốc đang đẩy mạnh khai thác nội địa và đầu tư vào năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, xe điện… Do đó, nhu cầu khí nhập khẩu của nước này đã giảm và dự kiến tiếp tục đi xuống trong thập kỷ tới. Việc xây dựng một dự án lớn như Power of Siberia-2, với công suất tối đa 50 tỷ m3/năm, sẽ không thực sự cần thiết nếu nhu cầu không đủ lớn.

“Ngay cả khi được triển khai thì sớm nhất cũng phải đến năm 2030 mới đi vào hoạt động. Lúc đó, công nghệ lưu trữ và năng lượng tái tạo đã phát triển thêm 5 năm nữa,” Joseph Webster từ Atlantic Council bình luận.

Sự im lặng của Bắc Kinh

Một yếu tố đáng chú ý khác là sự im lặng gần như hoàn toàn của giới chức Trung Quốc về dự án. Truyền thông nhà nước chỉ đưa tin gián tiếp qua báo chí Nga hoặc quốc tế, trong khi ông Tập Cận Bình không nhắc trực tiếp đến đường ống trong tuyên bố sau hội nghị với Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Mông Cổ Ukhnaagiin Khurelsukh.

“Bắc Kinh không cần đường ống này, nhưng cũng không có lý do gì để phủ nhận công khai,” chuyên gia Benjamin Schmitt từ Đại học Pennsylvania nhận định. Ông cho rằng việc Gazprom nhấn mạnh vào bản ghi nhớ là động thái truyền thông nhằm củng cố hình ảnh liên minh chặt chẽ Nga - Trung.

Tuy nhiên, hai yếu tố có thể làm thay đổi cuộc chơi đó là Nga chấp nhận nhượng bộ mạnh về giá và khối lượng, cùng với đó là tình hình địa chính trị khu vực có những biến động đáng kể.

Về giá khí đốt, Gazprom gợi ý mức giá sẽ thấp hơn châu Âu do khoảng cách vận chuyển và địa hình. Nhưng phía Trung Quốc được cho là đang đàm phán giá ở mức gần với giá bán nội địa tại Nga, vốn đã được nhà nước trợ giá mạnh.

Trung Quốc cũng không muốn cam kết mua toàn bộ công suất 50 tỷ m3/năm, mà chỉ sẵn sàng nhận khoảng 50% công suất. Trong khi các hợp đồng đường ống thông thường thường yêu cầu mua tối thiểu 80% để đảm bảo hiệu quả đầu tư.

Song, nếu Nga chấp nhận bán rẻ và cho phép linh hoạt khối lượng, đường ống này có thể trở thành “phương án dự phòng” chiến lược trong bối cảnh tình hình khu vực bất ổn.

Ví dụ, căng thẳng tại eo biển Hormuz - tuyến hàng hải chiến lược mà nhiều lô LNG của Trung Quốc phải đi qua, hay chiến tranh thương mại kéo dài với Mỹ, đang khiến Trung Quốc quan tâm hơn đến nguồn cung ổn định qua đường bộ.

Đặc biệt, Bắc Kinh đã ngừng nhập LNG Mỹ từ tháng 2/2025 và nhiều hợp đồng nhập khẩu LNG dài hạn từ các quốc gia khác sẽ hết hạn vào thập niên 2030. Khi đó, khí đốt Nga sẽ là một lựa chọn quan trọng giúp Trung Quốc duy trì thế mặc cả với các đối tác khác.

Tham khảo Oilprice

Link nội dung: https://businessinvestmentvn.com/nga-trung-quoc-bat-tay-lam-du-an-duong-ong-khi-dot-cong-suat-50-ty-m3nam-chuyen-gia-phuong-tay-voi-va-noi-loi-cay-dang-a265912.html