Khẩu hiệu cứu đói kêu gọi nhân dân “nhường cơm sẻ áo” năm 1945 - Ảnh: tư liệu
Sống ở gần chợ Đông Hồ, xã Thái Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (cũ), cụ Nguyễn Quang Dung, 91 tuổi, vẫn nhớ cảnh người đói tập trung ở chợ để xin ăn. Chính mắt ông thấy có nhiều người bị đuổi đánh nhưng cũng có người bán không nỡ đánh mà còn chia đồ ăn cho người sắp chết đói.
Không nỡ đánh đuổi người cướp cơm
"Phiên chợ ngày đói cũng thưa thớt các mặt hàng, bán chạy nhất chỉ có hàng bánh đúc, cơm nắm, khoai ngô non, bánh cám. Mỗi người bán phải có người vác gậy đứng canh bên cạnh vì sợ người đói xông vào cướp, có hàng còn có hai người canh.
Cảnh xua đuổi, đánh đập xảy ra mỗi ngày nhưng có người bán không nỡ đánh vì biết đều là dân mình quá đói mới cướp. Có người bán vẫn chia đồ ăn cho người đói, tương trợ nhau ít nhiều gì đều quý", cụ Dung kể.
Cụ Dung cho biết thêm những ngày đói, anh em trong nhà, hàng xóm giúp nhau bơ gạo, củ khoai, nắm rau là bình thường. Cũng như bây giờ người dân giúp nhau nhưng ngày đó miếng ăn còn quý hơn vàng.
Không chỉ giúp đồ ăn, nhiều gia đình có nghề nghiệp được chút tiền đong gạo thì nhận con nuôi. Có người nhận nuôi qua nạn đói, có người nhận nuôi suốt đời.
Trường hợp nhận nuôi suốt đời như bà Lê Thị Mi ở Phú Thọ mà chúng tôi vừa nhắc ở kỳ 1. Còn có nhiều trường hợp nhận nuôi qua nạn đói như gia đình bác sĩ Vũ Thường Vụ, 79 tuổi, ở gần chợ Đông Hồ: "Bố mẹ tôi nhận nuôi một người phụ nữ, chắc chỉ kém mẹ tôi vài tuổi thôi. Bác mất lâu rồi, tôi chỉ nhớ sau này bác gọi là bố mẹ nuôi.
Bác thường nhắc nếu không có bố mẹ tôi thì bác đã chết đói lâu rồi. Hồi đó ông nội và bố tôi đều là nhà nho, làm thầy giáo, có chút lương nên cả nhà may mắn không ai chết đói. Bố mẹ tôi thương bác nên nuôi qua nạn đói, sau đó thì bác về lại nhà bác ở.
Bố mẹ tôi thi thoảng vẫn nhắc đến để dạy các con nên giúp đỡ người gặp cảnh khốn khó. Tôi lớn lên vào Nam học rồi công tác ở trong đó nên ký ức về bác cũng không nhiều" - bác sĩ Vụ bày tỏ.
Cũng nhận nuôi người qua nạn đói, gia đình ông Phạm Ngọc Giao (85 tuổi, ở phố Hàng Bài, Hoàn Kiếm, Hà Nội) kể với chúng tôi: "Năm 1945 tôi chỉ mới 5 tuổi nhưng nhớ rất rõ được người nhà dắt đi quyên góp gạo, tiền, phát cháo, bánh đúc cho người đói ở Nhà hát lớn Hà Nội. Đợt nào có nhiều cho nhiều, đợt có ít cho ít. Hà Nội có nhiều điểm quyên góp, chia thành nhiều đợt.
Tôi còn nhớ người đói ở đâu về Hà Nội rất đông, đi thành từng nhóm 3-4 người. Người lớn, trẻ em gầy đen, quần áo tả tơi, rách rưới. Nhà ai có quần áo ấm mang ra cho vì mùa đông trời lạnh, họ co ro ngồi ở góc phố, vỉa hè.
Hôm nào tôi mở cửa nhà cũng thấy vài người ngồi ở bệ cửa. Có mấy người phụ nữ quê ở tỉnh Hà Nam quẩy gánh hàng đi bán, hàng hóa ế chẳng ai mua. Bố mẹ tôi thương quá gọi họ vào làm công cho nhà rồi nuôi họ ăn ở luôn.
Nhà tôi là xưởng sản xuất vàng, hiệu vàng sư tử, nên khi đó có thể nuôi được người làm. Tôi nhớ bố mẹ nhận nuôi tới 10 người, cả nam lẫn nữ cùng quê Hà Nam, chắc họ gọi nhau tới.
Nhà tôi còn trả tiền công làm để họ về nuôi được gia đình, con cái. Có người làm nhà tôi tới năm 1957 mới nghỉ, đây là năm Nhà nước quản lý sản xuất vàng nên nhà tôi đóng cửa tiệm. Nhiều người làm công cho nhà tôi, con cháu họ bây giờ rất thành đạt, họ thi thoảng vẫn ghé thăm tôi".
Ngoài giúp đỡ nhau trong xóm làng, các cá nhân ngoài xã hội, còn có phong trào cứu đói từ các tổ chức, hội nhóm từ thiện, cứu tế.
"Phong trào cứu đói ở Thái Bình khá sôi nổi, lôi kéo được đông đảo giáo viên Hội Truyền bá quốc ngữ, Thanh niên cứu quốc và ngay cả công chức, nhà giáo, thành phần trung gian, mà cả các tầng lớp trên cũng tham gia.
Cứ buổi trưa họ quyên góp gạo, củi, xoong rồi nấu cơm nắm lại đưa cho người bị đói. Quỹ cứu đói đã quyên góp được 30 tấn thóc, xin khâm sai Phan Kế Toại được 100 tấn…" - trích lời ông Nguyễn Thanh Vân, nguyên trưởng Ban Nghiên cứu lịch sử tỉnh Thái Bình (sách Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử của giáo sư Văn Tạo và Furuta Moto).
"Hồi đó vài hội từ thiện hay nấu cháo bày ở Viện Tế bần đường Lạch Tray hoặc ở lò sát sinh đường An Dương (Hải Phòng) để cứu trợ đồng bào. Nhiều người như bộ xương, chân tay run rẩy, cố lách tới chiếc bàn dài.
Hai bàn tay khẳng khiu như hai ống sậy cố nâng bát cháo, một tia hy vọng bùng lên trong đôi mắt lờ đờ nhưng rồi vì kiệt lực, kẻ đáng thương này ngã chết trên mặt đất, nước cháo tung tóe khắp người" - thầy giáo Tăng Xuân An viết bài Nạn đói Ất Dậu 1945 trên tạp chí Xưa Và Nay tháng 10-2021.
Đồng bào bị đói, cướp xe gạo lính Nhật áp tải năm 1945 - Ảnh: VÕ AN NINH
Dân vùng lên đòi sự sống
Đặc biệt tại các vùng nông nghiệp, người dân không thể mãi chịu chết đói vì thiếu gạo. Nông dân Thái Bình, Nam Định và các tỉnh chống đối việc trồng đay bằng cách phá bỏ cây đay để trồng lúa và hoa màu.
Đồng thời với sự giúp đỡ của Việt Minh, nhân dân cũng vùng lên chống sưu cao thuế nặng và giành kho thóc của Nhật để lấy lương thực cứu đói. Việt Minh tổ chức nhiều đợt cướp kho thóc, thuyền thóc của Nhật như vụ cướp thuyền thóc trên sông Luộc, phá kho thóc ở Đồng Tâm (Kiến Xương). Việt Minh còn vận động một số nhà giàu cho dân vay thóc như Trần Khánh Nam cho vay 80 thúng, Lý Trí cho vay 20 thúng.
Tại Hải Dương, nhân dân giành lại được 39 kho thóc và 43 thuyền gạo. Ninh Bình phá thành công 12 kho thóc. Diễn biến tương tự ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hải Phòng và ngoại thành Hà Nội. Bên cạnh đó Việt Minh còn nỗ lực nối lại con đường vận chuyển lúa gạo từ Nam ra Bắc đang bị gián đoạn vì chiến tranh.
Về lâu dài, người dân các nơi còn giúp thóc giống, trâu bò để cày cho các tỉnh bị đói nặng. "Chúng tôi vừa được tin ông Lã Xuân Ứng - Túc mễ cục Vĩnh Yên - cho biết từ một tháng nay Túc mễ cục Vĩnh Yên đã xin ông tỉnh trưởng tỉnh ấy giữ lại được 183 tấn thóc giống để gửi về miền Nam cho các nông gia các tỉnh Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình. Túc mễ cục Vĩnh Yên đang điều đình gấp để nhanh chóng gửi được số thóc giống ấy đi" - báo Đông Phát ngày 26-5-1945.
"Nguy thay! vụ chiêm sắp qua, vụ mùa sẽ đến, ruộng vườn thời có, trâu bò thời không, lấy chi cấy cày". Cái nạn đó nguy chẳng kém gì cái nạn thiếu nhân công. Mong chính phủ lưu ý đến và gấp cho thi hành những phương pháp ráo riết để giữ cho dân quê đủ trâu bò cày" - một nông dân Thái Bình nói trên báo Bình Minh ngày 21-5-1945. Trâu bò nhiều tỉnh chết vì đợt rét, lại thêm đói quá người dân đem bán hoặc giết thịt bán ở chợ gây ra tình trạng thiếu hụt đó.
Ngoài cây trồng chính, nông dân còn tranh thủ trồng hoa màu ngắn hạn để chống đói trước khi vụ mùa tới. "Chúng tôi trồng rau củ mọi nơi, chỗ nào có đất trống thì trồng. Người dân thì trồng rau muống, khoai lang ở vườn nhà, bờ mương, giáo viên thì ở sân trường. Nhờ thế mà có cái ăn, cái đói bị đẩy lui dần" - cụ Hoàng Văn Bộ ở thôn Hiên, xã Tây Lương, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình cũ cho biết.
"Tinh thần " lá rách ít đùm lá rách nhiều" trong nạn đói của ông cha đang được thế hệ ngày nay kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong đại dịch Covid-19 hay các đợt bão lũ làm mất trắng nhà cửa của người dân. Ngẫm lại tôi càng nể các cụ hơn vì trong hoàn cảnh đói khổ như vậy, đồng bào vẫn đầy bao dung, nhân ái" - cô giáo Nguyễn Thu Hồng, Hà Nội, tâm sự...
_________________________________________________
Chiến tranh làm giao thông gián đoạn khiến việc đưa hạt gạo miền Nam ra cứu đói đồng bào miền Bắc năm 1945 bị trắc trở. Tuy nhiên nghĩa cử đồng bào này vẫn được nỗ lực thực hiện. Trong khi đó nhiều địa chủ, thương nhân, công chức miền Bắc cũng hết lòng sẻ chia với đồng bào bị hoạn nạn.
Kỳ cuối: Nồi cháo bên đường và nghĩa đồng bào
Link nội dung: https://businessinvestmentvn.com/80-nam-nan-doi-at-dau-bai-hoc-cho-mai-sau-ky-5-cuu-doi-la-rach-it-dum-la-rach-nhieu-a271716.html