Theo thông tin từ Chi cục Hải quan Khu công nghệ cao - Hải quan Khu vực II (TPHCM), đơn vị này vừa gửi thông báo tới Công ty TNHH Nhà máy sửa chữa và đóng tàu Sài Gòn về việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với bà Inah Kosasih, sinh năm 1969, quốc tịch Indonesia - tổng giám đốc kiêm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Lý do, công ty này còn nợ hơn 23,8 tỷ đồng tiền thuế nhập khẩu và tiền chậm nộp của 428 tờ khai hải quan đăng ký tại Chi cục Hải quan quản lý hàng đầu tư (nay là Chi cục Hải quan Khu công nghệ cao). Sau 30 ngày kể từ khi thông báo, nếu doanh nghiệp không hoàn thành nghĩa vụ thuế, biện pháp tạm hoãn xuất cảnh sẽ được thực thi.
Trước đó, ngày 15/9, Hải quan Khu công nghệ cao cũng đã ban hành quyết định cưỡng chế dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của công ty này. Doanh nghiệp FDI này hoạt động từ năm 2009 trong lĩnh vực sản xuất cấu kiện kim loại, bao bì gỗ và đồ gỗ xây dựng.
Cùng thời điểm, Hải quan Khu công nghệ cao còn có thông báo tương tự gửi tới Công ty TNHH Neocase Inc Việt Nam (TP HCM), liên quan đến ông Jeon Jeong Jae, quốc tịch Hàn Quốc - tổng giám đốc, người đại diện pháp luật công ty, do chậm thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Công ty TNHH Neocase Inc Việt Nam được xác định còn thiếu tiền thuế xuất nhập khẩu của 270 tờ khai đăng ký tại Chi cục Hải quan quản lý hàng đầu tư (nay là Hải quan Khu công nghệ cao) với số tiền hơn 29,8 tỷ đồng. Không chỉ tạm hoãn xuất cảnh, nhiều biện pháp cưỡng chế tài chính khác cũng đang được các đơn vị hải quan triển khai mạnh tay.

Giám đốc nhiều doanh nghiệp FDI bị tạm hoãn xuất cảnh do nợ thuế xuất nhập khẩu. Ảnh minh họa.
Tại Bình Dương, Chi cục Hải quan Khu công nghiệp Việt Hương đã ra quyết định cưỡng chế dừng làm thủ tục hải quan đối với Công ty TNHH SX-TM Lợi Hào Việt Nam , doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, vì nợ thuế hơn 64,5 tỷ đồng.
Tại Hải Phòng, Chi cục Hải quan Cửa khẩu Cảng Hải Phòng Khu vực 2 cũng ban hành quyết định trích tiền cưỡng chế từ tài khoản ngân hàng đối với Công ty TNHH Doosung EMS Vina (Bắc Ninh), nhằm thu hồi khoản nợ thuế quá hạn 90 ngày với tổng số tiền gần 69 triệu đồng, yêu cầu ngân hàng BIDV – Chi nhánh Hồng Hà thực hiện trích nộp vào ngân sách nhà nước.
Theo quy định tại Luật Quản lý thuế 2019, biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là bước cưỡng chế cuối cùng khi người nộp thuế cố tình không chấp hành nghĩa vụ sau khi đã bị xử lý hành chính. Cục Hải quan cho biết, biện pháp này mang tính răn đe mạnh mẽ, đồng thời đảm bảo công bằng trong thực thi nghĩa vụ thuế giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Đặc biệt, việc áp dụng tạm hoãn xuất cảnh với người đại diện doanh nghiệp FDI nợ thuế thể tránh tình trạng doanh nghiệp “rút lui” khỏi Việt Nam khi còn nợ ngân sách, đồng thời góp phần củng cố môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng giữa các thành phần kinh tế.
Theo đánh giá của cơ quan Hải quan, trong nhiều trường hợp, sau khi áp dụng biện pháp này, doanh nghiệp đã nhanh chóng thực hiện nghĩa vụ thuế, cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao kỷ luật tài chính.
Liên quan đến biện pháp tạm hoãn xuất cảnh do nợ thuế, mới đây, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa gửi Bộ Tài chính ý kiến góp ý về dự thảo sửa đổi Luật Quản lý thuế. Trong đó, VCCI cho rằng phạm vi áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh quá rộng; quy định cho phép tạm hoãn xuất cảnh cả với cá nhân là “chủ sở hữu hưởng lợi” hoặc người có tỷ lệ sở hữu trên 25% vốn doanh nghiệp là chưa hợp lý.
Theo VCCI, nhiều cá nhân là cổ đông hoặc nhà đầu tư chỉ góp vốn, không tham gia điều hành, nhưng vẫn có thể bị tạm hoãn xuất cảnh nếu doanh nghiệp phát sinh nợ thuế. Điều này, theo VCCI, có thể ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, đặc biệt với nhà đầu tư nước ngoài, và đi ngược lại nguyên tắc trách nhiệm hữu hạn đã được luật doanh nghiệp quy định rõ.
VCCI đề xuất biện pháp tạm hoãn xuất cảnh chỉ nên áp dụng trong trường hợp đặc biệt, khi người đại diện theo pháp luật có dấu hiệu cố tình trốn tránh nghĩa vụ hoặc doanh nghiệp nợ thuế kéo dài, vượt ngưỡng lớn. Việc thu hồi nợ thuế cần dựa trên cơ chế kiểm soát rủi ro, minh bạch và đảm bảo cân bằng giữa quyền lợi Nhà nước với quyền tự do cá nhân của nhà đầu tư.