
Tại quốc gia Nam Á, ngành sữa có ý nghĩa đặc biệt, bởi con bò là biểu tượng linh thiêng trong Ấn Độ giáo. Nhưng ngành này không chỉ mang giá trị tinh thần, mà còn được xem là minh chứng cho thành công trong xóa đói giảm nghèo, nhờ chính sách hợp lý, tiến bộ kỹ thuật và hợp tác quốc tế.
Trong gần 3 thập kỷ, Ấn Độ là nhà sản xuất sữa lớn nhất thế giới, hiện cung ứng khoảng 1/4 sản lượng toàn cầu. Tuy nhiên, đối với các đối tác thương mại, nhất là Mỹ, ngành sữa Ấn Độ lại điển hình cho những bất cập: năng suất thấp, nhận được nhiều trợ cấp, gây ô nhiễm khí mê-tan và được bảo vệ bằng hàng rào thuế quan cao cùng vô số rào cản phi thuế.
Ngành sữa từng ghi dấu ấn lịch sử với “Cuộc cách mạng trắng” năm 1970. Khi đó, dù sở hữu đàn gia súc lớn nhất thế giới, người Ấn chỉ tiêu thụ trung bình 100 ml sữa/ngày - thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn dinh dưỡng và phải nhập khẩu bổ sung. Sau 3 thập kỷ, nhờ hiện đại hóa chăn nuôi, lai tạo giống và mở rộng mạng lưới hợp tác xã, lượng sữa bình quân đầu người đã gần gấp đôi.
Thế kỷ 21 chứng kiến năng suất tiếp tục cải thiện, nhưng cấu trúc ngành vẫn không thay đổi đó là phụ thuộc vào hàng chục triệu hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. “Cuộc cách mạng trắng 2.0” do chính phủ phát động năm ngoái không nhằm cải tổ, mà mở rộng quy mô, với việc tăng 50% lượng sữa thu mua qua hợp tác xã trong 5 năm. Mỗi hộ thường nuôi vài con bò trên mảnh đất 1 hecta, tận dụng phân bón từ chất thải gia súc và bán phần sữa dư cho hợp tác xã.
Hợp tác xã đảm bảo đầu ra và thưởng thêm khi giá tăng. Một số thương hiệu như Amul ở bang Gujarat đã trở thành tổ chức dự án tầm quốc gia. Mô hình này được ca ngợi đến mức tháng 7 vừa qua, Bộ trưởng Nội vụ Ấn Độ Amit Shah công bố kế hoạch mở rộng hợp tác xã sang các ngành khác như du lịch, taxi và năng lượng xanh.
Ấn Độ có khoảng 200 triệu gia súc, trong đó 62 triệu là bò sữa. Song quy mô đàn trung bình dưới 4 con/hộ, so với 390 con ở Mỹ. Mỹ chỉ có khoảng 24.000 trang trại bò sữa nhưng năng suất mỗi con cao gấp 7 lần so với Ấn Độ.
Chính phủ Ấn Độ bảo vệ ngành này bằng mức thuế nhập khẩu tương đương thuế mà ông Trump áp với hàng xuất khẩu của Ấn: 40% với bơ và phô mai, 60% với sữa bột. Nếu gỡ bỏ, theo ông Shashi Kumar - giám đốc doanh nghiệp sữa hữu cơ Akshayakalpa, “nông hộ nhỏ sẽ sụp đổ”.
Không chỉ thuế quan, Mỹ còn phản đối lệnh cấm nhập khẩu sản phẩm sữa từ bò được cho ăn thức ăn có nguồn gốc động vật (gọi là “sữa không thuần chay”) vào năm 2023.
Ngoài ra, Ấn Độ cũng cấm nhập phần lớn cây trồng biến đổi gen (trừ bông), càng khiến đàm phán thương mại với Mỹ thêm bế tắc.
Trong 4 năm qua, nông dân Ấn Độ 2 lần chặn đứng nỗ lực cải cách. Năm 2021, hàng tháng trời biểu tình ở Delhi buộc ông Modi phải hủy bỏ 3 đạo luật nhằm tự do hóa nông nghiệp. Nhiều chuyên gia dự đoán, nỗ lực gây sức ép qua ngoại giao thương mại của ông Trump với ngành sữa sẽ gặp kết quả tương tự.
Thực tế, không chỉ Mỹ, EU và Anh cũng coi ngành sữa là “nút thắt” trong đàm phán mở cửa thị trường với Ấn Độ. Đây cũng được cho là nguyên nhân chính khiến Ấn Độ rút khỏi Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) năm 2019.
Trong bối cảnh tranh chấp thương mại Mỹ - Ấn đang nóng lên vì dầu Nga, ngành sữa nhiều khả năng sẽ tiếp tục là “điểm nóng” bất khả xâm phạm đối với New Delhi song lại là “cái gai” trong mắt các đối tác phương Tây muốn tiếp cận thị trường 1,4 tỷ dân này.
Tham khảo Economist