Quốc gia BRICS tuyên bố sẽ sản xuất gần 160 triệu tấn 'vàng lỏng', có khách mua đến 80 triệu tấn/năm với giá chiết khấu 30%: Sự 'kìm kẹp' của Mỹ và phương Tây lộ lỗ hổng?

Dù đang hứng chịu các đòn trừng phạt khắt khe từ quốc tế và các cuộc không kích liên tục, quốc gia BRICS này vẫn không chùn bước trong tham vọng nâng sản lượng dầu lên mức kỷ lục như năm 2024, thậm chí còn có thể vượt qua con số này trong năm nay.

Quốc gia BRICS tuyên bố sẽ sản xuất gần 160 triệu tấn 'vàng lỏng', có khách mua đến 80 triệu tấn/năm với giá chiết khấu 30%: Sự 'kìm kẹp' của Mỹ và phương Tây lộ lỗ hổng?- Ảnh 1.

Theo số liệu chính thức và nhiều nguồn tin trong ngành, năm ngoái, Iran đã sản xuất trung bình 4,3 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, cộng thêm 725.000 thùng/ngày từ các sản phẩm dầu khí khác. Đây là mức cao nhất kể từ giáo năm 1979.

Một quan chức cấp cao trong ngành dầu mỏ, người có quan hệ mật thiết với Bộ Dầu mỏ Iran, tiết lộ với OilPrice.com rằng quốc gia này đang khôi phục sản lượng và có thể sẽ vượt ngưỡng của năm 2024. “Sự hỗ trợ đến từ Nga, cả trên thực địa lẫn về thiết bị và công nghệ. Trung Quốc vẫn là khách hàng lớn, duy trì các thỏa thuận dài hạn với Iran,” nguồn tin này cho biết.

Nga và Trung Quốc là đối tác chiến lược

Việc Nga góp mặt sâu vào ngành năng lượng Iran không phải điều lạ lẫm. Ngay cả trước khi Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân JCPOA năm 2018, Moscow đã ký kết hàng loạt biên bản ghi nhớ (MoU) để khai thác bảy mỏ dầu và khí đốt lớn tại Iran, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Các thỏa thuận bao gồm GazpromNeft với các mỏ Changuleh và Cheshmeh-Khosh, Zarubezhneft tại Aban và Paydar Gharb, Tatneft ở Dehloran, và Lukoil tại Ab Teymour và Mansouri.

Sau khi mâu thuẫn tại Ukraine xảy ra, Nga lại càng cần đến dầu khí Iran trong thế đối đầu với phương Tây. Tháng 7/2022, Tổng thống Vladimir Putin đã tới Tehran để hoàn tất thỏa thuận MoU trị giá 40 tỷ USD với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Iran (NIOC). Trong đó, Gazprom cam kết đầu tư 10 tỷ USD vào việc phát triển các mỏ khí Kish và North Pars, hướng tới sản lượng hơn 10 triệu m3 khí/ngày. Ngoài ra, còn có dự án 15 tỷ USD nhằm gia tăng áp suất khai thác tại mỏ khí khổng lồ South Pars, nơi có cùng trữ lượng với Qatar.

Nga cũng sẽ hỗ trợ hoàn thiện các dự án khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG), xây dựng đường ống xuất khẩu khí và cung cấp công nghệ, thiết bị để tăng sản lượng tại cụm mỏ West Karoun, vốn là nơi trọng điểm của Iran.

Ngoài ra, Trung Quốc vẫn giữ vững vị trí là khách hàng mua dầu số một của Iran. Lý do không chỉ nằm ở sự linh hoạt trong giao dịch, mà còn vì điều khoản siêu ưu đãi trong Thỏa thuận Hợp tác Toàn diện 25 năm Iran - Trung Quốc.

Theo thỏa thuận này, Bắc Kinh được quyền “ưu tiên mua trước” với hầu hết các dự án dầu, khí và hóa dầu tại Iran. Mức giá mỗi thùng dầu cũng được tính theo công thức có lợi nhất cho Trung Quốc, cao hơn giá trung bình 18 tháng hoặc giá trung bình 6 tháng gần nhất, tùy mức nào cao hơn. Tính trung bình trong năm ngoái, Trung Quốc nhập 70 đến 80 triệu tấn dầu từ Iran.

Thêm vào đó, Trung Quốc còn được chiết khấu ít nhất 10%, thậm chí có trường hợp lên tới 30% với các khoản tiền thưởng kèm theo. Với khí đốt, Bắc Kinh cũng nhận được mức giá thấp hơn giá sàn một năm trung bình tại các trung tâm giao dịch khí lớn nhất thế giới. Đây là điều kiện lý tưởng để các công ty Trung Quốc vừa đảm bảo lợi nhuận, vừa tăng cường hiện diện sâu trong ngành năng lượng Iran.

Ưu tiên phát triển mỏ nhỏ, lợi ích lớn

Nga hiện đang ưu tiên phát triển những mỏ dầu có khả năng gia tăng sản lượng nhanh chóng chỉ bằng việc nâng cấp thiết bị khai thác. Một phần của chiến lược này là nằm trong thỏa thuận hợp tác 20 năm giữa 2 nước và một phần là để "thanh toán" cho các thiết bị quân sự Iran cung cấp cho Nga.

Với nguồn tài nguyên dồi dào, Iran có thể sản xuất 492-493 tỷ mét khối khí đốt/năm và 157 triệu tấn dầu/năm.

Trong đó, hai mỏ Changuleh và Cheshmeh-Khosh đang được chú trọng phát triển trở lại. Với trữ lượng ước tính 4,8 tỷ thùng, mỏ Changuleh được kỳ vọng sẽ đạt sản lượng 60.000 thùng/ngày trong giai đoạn đầu.

Các hoạt động sửa chữa, hoàn thiện giếng khoan và xây dựng hệ thống ống dẫn đang diễn ra khẩn trương. Điều đặc biệt là mỏ này nằm sát biên giới Iraq và được kết nối với các mỏ như Badra (Iraq) và Azar (Iran), cho phép Iran “hợp pháp hóa” một phần dầu xuất khẩu bằng cách tuyên bố là dầu từ các mỏ chung, tránh bị phát hiện trong các đợt kiểm tra cấm vận.

Một mỏ khác là Arvand cũng đang được đẩy nhanh tiến độ. Nằm ở tỉnh Khuzestan, mỏ này chứa khoảng 1 tỷ thùng dầu cùng với 14 tỷ m3 khí khô và 55 triệu thùng khí ngưng tụ. Khu vực này từng có tranh chấp giữa Iran, Iraq và Kuwait, nhưng hiện tại Tehran tuyên bố đã giải quyết xong quyền sở hữu.

Bộ Dầu mỏ Iran cho biết nếu được đầu tư đúng mức, mỏ này có thể đạt sản lượng 1,4 triệu thùng/ngày trong vòng 5 năm và trở thành một trong những mỏ dầu lớn nhất thế giới. Chi phí khai thác tại đây ước tính chỉ khoảng 1,65–1,70 USD/thùng, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình khu vực là 2 USD/thùng.

Một điểm phát triển tiếp theo là mỏ khí Chalous ở khu vực biển Caspi, cũng thuộc thỏa thuận chiến lược 20 năm Nga-Iran. Cả khu vực Caspi, bao gồm các mỏ trên bờ và ngoài khơi, được ước tính chứa khoảng 48 tỷ thùng dầu và 8.300 tỷ m3 khí. Dù từng nắm giữ 50% quyền khai thác, năm 2019 Nga đã giúp thay đổi quy định pháp lý, cắt giảm phần của Iran xuống còn 11,875%.

Theo đánh giá gần nhất, khu vực Chalous gồm 2 mỏ khí nằm cách nhau 9 km, với tổng trữ lượng đạt 250 tỷ m3. Điều này khiến Chalous trở thành một trong những dự án trọng điểm trong chiến lược năng lượng lâu dài của Tehran, nhất là trong bối cảnh cần đối phó với sức ép cấm vận ngày càng gia tăng từ phương Tây.

Tham khảo Oilprice